Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10 năm 1962 là cuộc đối đầu trực tiếp và nguy hiểm nhất giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh.
Sự kiện này là thời điểm hai siêu cường tiến gần nhất đến xung đột hạt nhân.
Cuộc khủng hoảng gay cấn còn có một điểm rất đặc biệt bởi các quyết định và liên lạc chủ yếu diễn ra ở cấp cao nhất của Nhà Trắng và Điện Kremlin, không thông qua các quan chức bên dưới như thường lệ.
Chưa đầy ba tháng sau khi John F. Kennedy nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ, Washington đã thực hiện một cuộc đổ bộ, trong sự kiện Vịnh Con Lợn, diễn ra từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 4 năm 1961, nhằm lật đổ chính phủ của Fidel. Castro ở Cuba nhưng không thành công.
Sau thất bại ở Vịnh Con Lợn, Tổng thống Kennedy và CIA vẫn quyết tâm loại bỏ Castro và Chiến dịch Mongoose đã được thông qua.
Theo đó, những người Cuba lưu vong và đặc vụ CIA đã bí mật tấn công vào ngành công nghiệp và nông nghiệp của Cuba. Họ cũng nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng và thực hiện các vụ ám sát chính trị liên quan đến các thành viên trong chính phủ của Castro.
Thậm chí còn có kế hoạch ám sát Fidel Castro. Các hoạt động tích cực của Mỹ chống lại Cuba khiến Castro tin rằng ông cần sự hỗ trợ của Liên Xô.
Khrushchev ‘đánh giá thấp’ Kennedy
Năm 1961, Bí thư thứ nhất kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikita Khrushchev gặp Kennedy tại Hội nghị thượng đỉnh Vienna để thảo luận về phổ biến vũ khí hạt nhân và tình hình ở Berlin.
Khrushchev nhận thấy Kennedy là người trẻ, thân thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm.
Điều này khiến anh ta tin rằng Kennedy có thể bị thao túng và đe dọa.
Kennedy bị coi là yếu vì đã xử lý cuộc xâm lược Vịnh Con lợn năm 1961.
Khrushchev lầm tưởng rằng Kennedy không thể chống lại một cách hiệu quả dự án xây dựng quân đội của Liên Xô ở Cuba.
Quan điểm của Khrushchev cũng có thể được giải thích một phần bằng các sự kiện ở Berlin. Chính phủ Đông Đức đã xây dựng Bức tường Berlin vào năm 1961.
Kennedy chỉ trích việc xây dựng nhưng không đưa ra phản ứng quân sự.
Điều này có thể khiến Khrushchev đặt câu hỏi liệu Kennedy có khả năng thực hiện bất kỳ hành động quân sự nào trong tương lai hay không.
Trong khi đó, chính quyền Kennedy rất kiên quyết về việc lật đổ chế độ Fidel Castro.
Họ đã đẩy Castro về phía người Nga sau cuộc xâm lược Vịnh Con lợn và Chiến dịch Mongoose.
Như một bài đăng trên trang BBC chỉ ra, Kennedy và các nhà chức trách Mỹ đã không nhận ra hành động đạo đức giả của Mỹ khi đặt tên lửa gần Liên Xô, nhưng từ chối cho phép Liên Xô làm điều tương tự.
Vào tháng 10 năm 1962, thế giới tiến gần đến chiến tranh hạt nhân.
Một cuộc khủng hoảng liên quan đến Cuba đã xảy ra, do chính sách đối ngoại hiếu chiến của Mỹ, căng thẳng từ cuộc chạy đua vũ trang và hành động của Khrushchev.
Thoả thuận bí mật
Vào tháng 7 năm 1962, Nikita Khrushchev đạt được một thỏa thuận bí mật với Thủ tướng Cuba Fidel Castro về việc đặt các tên lửa hạt nhân của Liên Xô ở Cuba để ngăn chặn bất kỳ nỗ lực xâm lược nào trong tương lai.
Quyết định của Khrushchev đặt vũ khí hạt nhân trên Cuba có thể được coi là một phản ứng đối với việc Nato đặt tên lửa Jupiter ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Những tên lửa này có cùng khoảng cách từ Liên Xô cũng như từ Cuba đến Hoa Kỳ.
Việc xây dựng một số địa điểm đặt tên lửa bắt đầu vào cuối mùa hè năm 1962.
Nhưng tình báo Mỹ đã phát hiện ra bằng chứng về việc Liên Xô trang bị vũ khí cho Cuba, bao gồm cả máy bay ném bom IL-28 của Liên Xô.
Ngày 4 tháng 9 năm 1962, Tổng thống Kennedy công khai cảnh báo không được mang vũ khí tấn công vào Cuba.
Vào ngày 14 tháng 10, một máy bay U-2 của Mỹ đã chụp một số bức ảnh cho thấy rõ địa điểm của các tên lửa đạn đạo tầm trung đang được chế tạo ở Cuba.
Những hình ảnh này đã được trình bày cho Nhà Trắng vào ngày hôm sau, dẫn đến sự khởi đầu của Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Kennedy đã triệu tập các cố vấn thân cận nhất của mình để xem xét các phương án giải quyết cuộc khủng hoảng.
Một số cố vấn – bao gồm tất cả các Tham mưu trưởng Liên quân – muốn không kích để phá hủy tên lửa, sau đó xâm lược Cuba. Vẫn còn những người khác muốn cảnh báo nghiêm khắc Cuba và Liên Xô.
Tổng thống Hoa Kỳ đã quyết định đi giữa.
‘Kiểm dịch’ hàng hải
Vào ngày 22 tháng 10, ông đã ra lệnh “kiểm dịch” hàng hải đối với Cuba.
“Kiểm dịch” pháp lý phân biệt hành động này với một hành động phong tỏa, trong đó giả định tình trạng chiến tranh.
Cùng ngày hôm đó, Kennedy đã gửi một bức thư cho Khrushchev tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ không cho phép chuyển giao vũ khí tấn công cho Cuba, và yêu cầu Liên Xô dỡ bỏ các căn cứ tên lửa đã được xây dựng hoặc hoàn thiện. , và trả lại tất cả vũ khí tấn công cho Liên Xô.
Tổng thống Kennedy cũng đã lên truyền hình quốc gia vào tối hôm đó để thông báo cho công chúng về những diễn biến ở Cuba.
Vào ngày 24 tháng 10, Khrushchev đáp lại thông điệp của Kennedy với tuyên bố rằng việc “phong tỏa” của Hoa Kỳ là một “hành động xâm lược” và các tàu của Liên Xô sẽ đi đến Cuba.
Tuy nhiên, trong các ngày 24 và 25 tháng 10, một số tàu của Liên Xô đã lật mình sau đường cách ly; Các tàu khác bị hải quân Mỹ đánh chặn, nhưng do không có vũ khí tấn công nên chúng được phép tiến đến Cuba.
Trong khi đó, các chuyến bay do thám của Mỹ qua Cuba đã phát hiện các điểm đặt tên lửa của Liên Xô gần như đã sẵn sàng hoạt động.
Vào ngày 26 tháng 10, Kennedy nói với các cố vấn của mình rằng có vẻ như chỉ một cuộc tấn công của Mỹ vào Cuba mới có thể loại bỏ tên lửa của Liên Xô, nhưng ông khẳng định sẽ cho ngoại giao thêm một chút thời gian.
Cuộc khủng hoảng đã đi vào bế tắc.
Thông điệp của Liên Xô
Tuy nhiên, chiều hôm đó, có một diễn biến mới.
Phóng viên John Scali của ABC News đã báo cáo với Nhà Trắng rằng ông đã được một điệp viên Liên Xô gợi ý rằng có thể đạt được một thỏa thuận. Theo đó, Liên Xô sẽ loại bỏ tên lửa khỏi Cuba nếu Mỹ hứa không xâm phạm hòn đảo này.
Cùng ngày, Khrushchev gửi cho Kennedy một bức điện vào tối ngày 26 tháng 10, có nghĩa là nó được gửi vào lúc nửa đêm theo giờ Moscow.
Đó là một thông điệp dài, đầy cảm xúc, trình bày một đề xuất tương tự như những gì Scali đã báo cáo trước đó cùng ngày.
Ngày hôm sau, 27 tháng 10, Khrushchev gửi một thông điệp khác chỉ ra rằng bất kỳ thỏa thuận nào cũng phải bao gồm việc loại bỏ tên lửa Jupiter của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ.
Mỹ đáp lại
Cùng ngày hôm đó, một máy bay phản lực trinh sát U-2 của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Cuba.
Kennedy và các cố vấn của ông đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Cuba trong vài ngày tới, khi họ tìm kiếm một giải pháp ngoại giao.
Nhà Trắng quyết định rằng Tổng thống Kennedy sẽ bỏ qua bức điện thứ hai của Khrushchev và trả lời bức điện đầu tiên.
Đêm đó, Kennedy đã gửi một thông điệp tới nhà lãnh đạo Liên Xô đề xuất các bước để loại bỏ các tên lửa của Liên Xô khỏi Cuba dưới sự giám sát của Liên hợp quốc và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ không tấn công Cuba.
Sau đó, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy đã bí mật gặp Đại sứ Liên Xô tại Hoa Kỳ, Anatoly Dobrynin, và cho biết Hoa Kỳ có kế hoạch loại bỏ tên lửa Jupiter khỏi Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng Hoa Kỳ nói rằng điều này không thể được công khai trong khu định cư Cuba.
Sự kết thúc của cuộc khủng hoảng
Sáng hôm sau, 28 tháng 10, Khrushchev tuyên bố công khai rằng các tên lửa của Liên Xô sẽ được tháo dỡ và đưa ra khỏi Cuba.
Cuộc khủng hoảng đã kết thúc nhưng việc kiểm dịch hải quân vẫn tiếp tục cho đến khi Liên Xô đồng ý rút máy bay ném bom IL-28 của họ khỏi Cuba.
Ngày 20 tháng 11 năm 1962, Hoa Kỳ chấm dứt hoạt động kiểm dịch hàng hải.
Tên lửa Jupiter của Mỹ được đưa ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 4/1963.
Sau cuộc khủng hoảng, Nhà Trắng và Điện Kremlin đã thiết lập “Đường dây nóng” qua điện thoại.
Cả hai siêu cường sau đó cũng bắt đầu xem xét lại cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân và thực hiện những bước đầu tiên trong việc đồng ý với Hiệp ước Cấm thử hạt nhân.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 1963, Hoa Kỳ, Liên Xô và Vương quốc Anh đã ký Hiệp ước Cấm Thử nghiệm Hạt nhân, cấm tất cả các vụ thử hạt nhân trong không gian vũ trụ, dưới nước hoặc trong bầu khí quyển. .