8 cuộc chiến Mỹ lẽ ra không nên tham chiến (Mới)

8 cuộc chiến mà Mỹ không bao giờ nên tham chiến - Ảnh 1.

Việc Mỹ tham gia vào các cuộc xung đột không chỉ khiến hàng triệu người thiệt mạng vô tội mà còn góp phần tạo ra những kẻ thù mới, khiến an ninh của Mỹ trở nên kém an toàn hơn rất nhiều. Dưới đây là danh sách các cuộc chiến tranh lớn mà nếu nhìn lại, đáng lẽ Mỹ không bao giờ phải tham chiến. Đăng bởi David T. Pyne- Phó Giám đốc Hoạt động Quốc gia của Lực lượng Đặc nhiệm EMP về Nội địa và An ninh Nội địa vì Lợi ích Quốc gia.

Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ (1898)

Chiến tranh Tây Ban Nha – từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 về các vấn đề giải phóng Cuba. Cuộc chiến bắt đầu sau khi Hoa Kỳ yêu cầu một giải pháp cho vấn đề độc lập của Cuba, nhưng Tây Ban Nha đã từ chối. Mỹ đang thúc đẩy chính phủ vạch ra kế hoạch sáp nhập các vùng lãnh thổ hải ngoại còn lại của Tây Ban Nha, bao gồm Philippines, Puerto Rico và Guam.

Cuộc cách mạng ở Havana khiến Mỹ cử chiến hạm USS Maine tới Cuba để thể hiện sự quan tâm cao độ của Mỹ. Tuy nhiên, tàu chiến này sau đó đã phát nổ khiến dư luận Mỹ lúc bấy giờ sôi sục. Căng thẳng gia tăng, cùng với việc báo chí đưa tin rộng rãi về sự đàn áp của Tây Ban Nha ở các thuộc địa, đã gây xôn xao dư luận Mỹ. Chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ kéo dài 4 tháng và kết thúc với chiến thắng của quân Mỹ ở quần đảo Philippines và Cuba nhưng khiến 220.000 người Philippines thiệt mạng.

Tuy nhiên, sau này, nhiều nhà sử học đã kết luận rằng khó có khả năng Tây Ban Nha bắn chìm chiến hạm USS Maine của Mỹ.

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1917-1918)

Ban đầu, Mỹ không tham chiến, nhưng đến cuối năm 1917, nhận thấy nếu Đức thắng, lợi ích của Mỹ ở châu Âu sẽ bị đe dọa, Mỹ quyết định tham chiến theo phe Đồng minh với Anh và Pháp. Ngày 6/4/1917, Mỹ tuyên chiến với Đức và chính thức bước vào Thế chiến thứ nhất.

Khi chiến tranh kết thúc vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, hơn hai triệu quân Mỹ đã có mặt trên các chiến trường Tây Âu. Hơn 50.000 lính Mỹ thiệt mạng. Tuy nhiên, tác động quan trọng nhất của việc Mỹ tham chiến là trên mặt trận kinh tế. Vào đầu tháng 4 năm 1917, Vương quốc Anh đã trả gần 75 triệu đô la một tuần để mua vũ khí và vật tư của Mỹ cho Anh và các đồng minh của nước này. Vương quốc Anh cũng phải thấu chi số tiền gần 358 triệu đô la Mỹ. Việc Mỹ tham chiến đã cứu được Vương quốc Anh và toàn bộ sức mạnh của Đồng minh khỏi sự phá sản.

Hoa Kỳ cũng đóng một vai trò quyết định trong việc hỗ trợ hải quân Đồng minh trong việc duy trì vòng vây trên biển của Đức, bắt đầu từ năm 1914, nhằm tiêu diệt Đức về mặt kinh tế. Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đến Vương quốc Anh vào ngày 9 tháng 4 năm 1917, chỉ ba ngày sau khi tuyên chiến. Trong khi đó, người được bổ nhiệm chỉ huy quân đội Mỹ ở châu Âu, Tướng John J. Pershing, đã không đến Pháp cho đến ngày 14/6 cùng với 14.000 lính bộ binh Mỹ đầu tiên tham gia huấn luyện tác chiến. chiến tranh. Mặc dù những đóng góp của quân đội Mỹ khởi đầu chậm chạp, nhưng chúng đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến và giúp quân Đồng minh giành được thắng lợi cuối cùng.

Đức buộc phải chấp nhận Hiệp ước Versailles đầy thù hận và trừng phạt đã phá hủy nền kinh tế Đức, tước bỏ 12-13% dân số và lãnh thổ, chia cắt đất nước thành Đông Đức và Tây Đức. Thỏa thuận cũng tạo ra cái gọi là Hành lang Ba Lan và tước đi khả năng tự vệ chống lại sự xâm lược của các quốc gia lớn như Bỉ.

Chiến tranh Việt Nam (1965-1973)

Mỹ phát động cuộc chiến tranh vô nghĩa, xâm lược Việt Nam, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người dân vô tội. Chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 20 năm, không chỉ diễn ra ở chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn ảnh hưởng và lan rộng ra miền Bắc (các chiến dịch đường không 1, 2, 3 của không quân Mỹ). và có liên quan trực tiếp đến Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia – cũng có sự can thiệp quân sự từ phía Hoa Kỳ (kết thúc năm 1973). Cuộc chiến này chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Miền Nam Việt Nam. Ngay trước thời điểm đó, tất cả công dân, nhân viên ngoại giao, quân sự và dân sự của Hoa Kỳ và các nước đồng minh duy trì sự hiện diện của họ sau năm 1973 cũng đã di tản khỏi miền Nam Việt Nam do sự kiện này. .

8 cuộc chiến mà Mỹ không bao giờ nên tham chiến - Ảnh 2.

Chiến tranh Iraq lần thứ nhất (1991)

Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (còn được gọi là Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư hoặc Chiến dịch Bão táp sa mạc) là cuộc xung đột giữa Iraq và một liên minh gồm gần 38 quốc gia. do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc chấp thuận giải phóng Kuwait.

Sự kiện dẫn đến cuộc chiến là việc Iraq xâm lược Kuwait vào ngày 2 tháng 8 năm 1990, sau khi Iraq tuyên bố (nhưng không chứng minh được) rằng Kuwait đã “nghiêng” giếng dầu của mình sang biên giới Iraq. Kết quả của cuộc xâm lược là Iraq ngay lập tức bị Liên hợp quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế. Các hành động quân sự bắt đầu vào tháng 1 năm 1991, dẫn đến chiến thắng hoàn toàn cho các lực lượng đồng minh, buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait với tổn thất nhân mạng tối thiểu cho các lực lượng đồng minh. Các trận chiến chính là các trận chiến trên không và trên bộ trong phạm vi Iraq, Kuwait và các khu vực giáp với Ả Rập Xê Út. Cuộc chiến không kéo dài ra ngoài biên giới Iraq / Kuwait / Saudi Arabia, mặc dù Iraq đã bắn tên lửa vào các thành phố của Israel.

Trên thực tế, điều đáng chú ý là Iraq từng là khách hàng của Mỹ cho đến thời điểm xâm lược Kuwait vào tháng 8/1990 sau khi được Mỹ “bật đèn xanh”. Quyết định tiêu diệt quân đội Iraq trong quá trình đẩy họ ra khỏi Kuwait đã làm suy yếu đáng kể khả năng tiếp tục chiến đấu chống lại Iran của Iraq, vốn được Tổng thống Ronald Reagan ủng hộ mạnh mẽ. Việc ném bom xuống Iraq tiếp tục diễn ra một thập kỷ sau khi cuộc chiến được cho là đã kết thúc, gây ra cái chết của lên đến nửa triệu trẻ em Iraq. Quan trọng nhất, cuộc chiến tranh chống Iraq do Hoa Kỳ lãnh đạo cũng tạo ra một chuỗi sự kiện dẫn đến việc Osama bin Laden tấn công Tháp Đôi và Lầu Năm Góc vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Điều này sau đó đã dẫn đến một cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu khiến vài trăm nghìn dân thường kéo dài hơn hai thập kỷ.

Chiến tranh NATO-Nam Tư (1999)

Năm 1999, NATO đã trang bị vũ khí cho những kẻ khủng bố ma túy thuộc Quân đội Giải phóng Kosovo Hồi giáo và chiến đấu cùng với lực lượng nổi dậy Al Qaeda trong cuộc chiến chống lại chính phủ Nam Tư, ném bom nó và các lực lượng quân sự, bao gồm cả thủ đô Belgrade. Đây là hành động xâm lược vô cớ đầu tiên của NATO, rõ ràng là nhằm mục đích tồn tại của NATO sau khi Liên Xô sụp đổ. Trên nhiều phương diện, có thể nói rằng cuộc chiến này, cùng với việc NATO mở rộng về phía đông sang các nước thuộc Khối Warszawa trước đây gồm Ba Lan, Cộng hòa Séc và Hungary cùng năm đó, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng. tầm quan trọng trong mối quan hệ Mỹ-Nga từ mối quan hệ được xác định bởi hợp tác sang mối quan hệ được xác định bởi xung đột và đối đầu. Việc Vladimir Putin thay thế Boris Yeltsin làm tổng thống Liên bang Nga vào cuối năm báo hiệu sự bắt đầu của Chiến tranh Lạnh thứ hai với Nga.

Chiến tranh Iraq lần thứ hai (2003 đến nay)

Cuộc xâm lược Iraq năm 2003 bắt đầu vào ngày 20 tháng 3, chủ yếu do quân đội Hoa Kỳ và Vương quốc Anh thực hiện; 98% quân đội đến từ hai quốc gia này, mặc dù nhiều quốc gia khác cũng tham gia. Cuộc xâm lược Iraq trở thành giai đoạn đầu tiên của chiến tranh Iraq. Về mặt lịch sử, nó có thể được gọi chính xác hơn là “Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ ba”, có từ cuộc chiến kéo dài 8 năm giữa Iraq và Iran vào những năm 1980. Lần này, Quân đội Iraq bị đánh bại hoàn toàn, và thủ đô Baghdad được giải phóng vào ngày 9 tháng 4 năm 2003. Ngày 1 tháng 5 năm 2003, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tuyên bố rằng các chiến dịch quan trọng đã kết thúc, tức là do bên thứ ba cầm quyền. và nhiệm kỳ của Tổng thống Iraq Saddam Hussein đã kết thúc. Các lực lượng liên minh cuối cùng đã chiếm được Saddam Hussein vào ngày 13 tháng 12 năm 2003. Sau đó, giai đoạn chuyển tiếp bắt đầu, trong khi bạo lực ở Iraq lan tràn bởi phần lớn là quân nổi dậy Hồi giáo dòng Sunni. tôn giáo, và cả những chiến binh của mạng lưới khủng bố Al-Qaeda.

Cuộc giải phóng năm 2003 là một phần của cuộc chiến chống khủng bố quốc tế do Tổng thống Mỹ George W. Bush khởi xướng sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9.

Một số quan chức Mỹ cho rằng Saddam chứa chấp, hậu thuẫn cho al-Qaeda, còn bản thân Saddam Hussein từng tỏ ra hả hê trên báo chí khi chứng kiến ​​cảnh Mỹ bị khủng bố trong sự kiện 11/9/2001. Tuy nhiên, nhìn chung, dư luận Mỹ đa số ủng hộ cuộc chiến với mong muốn chấm dứt chế độ độc tài đàn áp và mang lại dân chủ cho người dân Iraq (76% người Mỹ ủng hộ hành động quân sự chống lại Iraq). Người ta ước tính rằng chế độ Saddam Hussein đã gây ra cái chết của 250.000 người Iraq thông qua các chiến dịch thanh trừng và diệt chủng trong hơn 30 năm cầm quyền.

Năm 2004, Ủy ban 11/9 của Mỹ kết luận không có bằng chứng về mối liên hệ giữa chế độ Saddam Hussein và al-Qaeda và không tìm thấy kho dự trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt hoặc các chương trình chế tạo vũ khí. mà sự hủy diệt hàng loạt đang hoạt động ở Iraq. Việc chính phủ Mỹ tin rằng Iraq đang sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt đã được chứng minh là do thông tin tình báo sai lầm gây ra.

Ước tính số người chết do chiến tranh Iraq rất khác nhau, từ 151.000 đến 1.033.000 người Iraq.

Nội chiến Syria (2011 đến nay)

Nội chiến Syria là một cuộc nội chiến bắt nguồn từ cuộc nổi dậy ở Syria năm 2011 bắt đầu một loạt các cuộc biểu tình nhỏ diễn ra ở Syria, bắt đầu từ ngày 26 tháng 1 năm 2011 và chịu ảnh hưởng của các cuộc biểu tình. khác trong khu vực, được mô tả là chưa từng có.

Vào tháng 1/2012, Liên hợp quốc cho biết hơn 5.000 người đã thiệt mạng kể từ khi các cuộc biểu tình phản đối chính phủ của Tổng thống Bashar al-Assad nổ ra lần đầu tiên vào cuối tháng 3/2011.Tại Syria, Mỹ đã hỗ trợ quân sự cho nhiều nhóm phiến quân Syria, trong đó chủ yếu là các phần tử Hồi giáo cực đoan và có quan hệ với Al Qaeda, nhằm lật đổ chế độ Baathist của Bashar al-Assad. Hậu quả của cuộc xung đột, có tới 610.000 người Syria được cho là đã thiệt mạng – trong đó nhiều người khác phải rời bỏ đất nước. Nga và Iran đã mở rộng ảnh hưởng ở Syria.

8 cuộc chiến tranh mà Mỹ không bao giờ nên tham chiến - Ảnh 3.

Cuộc nội chiến Syria kéo dài 10 năm.

Nội chiến Libya lần thứ nhất (2011)

Nội chiến Libya là một cuộc xung đột vũ trang diễn ra ở Libya, xuất phát từ các cuộc biểu tình chống chính phủ kể từ ngày 15 tháng 2 năm 2011. Tình trạng bất ổn này đã lan rộng từ các sự kiện ở các nước láng giềng Ai Cập và Tunisia. , góp phần vào một loạt các cuộc biểu tình trong thế giới Ả Rập. Trong Nội chiến Libya năm 2011, các lực lượng NATO đã tham gia ném bom chính phủ Libya trong một hoạt động gợi nhớ đến vụ đánh bom vô cớ của NATO trong Nội chiến Nam Tư năm 1999 cũng như cuộc xâm lược Iraq của Hoa Kỳ vào năm 2003. Sự hỗ trợ của NATO đối với phiến quân Hồi giáo Libya đã đạt được thành công trong việc thay đổi chế độ, lật đổ và giết chết nhà độc tài Libya Muammar el-Qaddafi. Tuy nhiên, sự can thiệp sau đó của NATO đã gây ra một cuộc nội chiến tàn khốc, kéo dài vài năm và chia cắt đất nước giữa các phe phái cạnh tranh khác nhau. Al Qaeda cũng xây dựng một sự hiện diện đáng kể ở nước này.

KỲphần kết luận

Nếu Hoa Kỳ áp dụng một chính sách đối ngoại thực dụng hơn để tránh những xung đột không cần thiết, thì những kết quả bất lợi lâu dài của những cuộc chiến này có thể đã được ngăn chặn và số lượng kẻ thù đe dọa an ninh của nước Mỹ sẽ giảm đi đáng kể. Ngoài ra, việc thực hiện một chính sách như vậy có thể sẽ ngăn chặn hoàn toàn một số cuộc chiến tranh, cứu sống hàng chục triệu người.

Các cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và NATO chống lại Nam Tư, Iraq, Syria và Libya chắc chắn đã hỗ trợ cho tuyên bố của NATO rằng đây là một liên minh phòng thủ hoàn toàn không có mục đích tấn công. Hơn nữa, nếu không có sự mở rộng về phía đông của NATO và việc ném bom Nam Tư, rất có thể cuộc Chiến tranh Lạnh mới này với Nga và cuộc chiến ở Ukraine vào năm 2022 sẽ không bao giờ xảy ra, đặc biệt là nếu Mỹ và NATO tìm cách đưa Nga vào một số. một loại thỏa thuận an ninh chung để hội nhập tốt hơn vào châu Âu và phương Tây.

Viết một bình luận